Xử trí rối loạn stress sau sang chấn – Post Traumatic Stress Disorder (Phần 2)

Phản ứng của mỗi cá nhân và cộng đồng (dù có trực tiếp liên quan hay không) đối với các sang chấn tâm lý là một trong những vấn đề sức khoẻ cộng đồng vô cùng quan trọng trong thế giới ngày nay.

xu tri roi loan stress sau sang chan post traumatic stress disorder phan 2 4

III – Triệu chứng bệnh:

Các biểu hiện của PTSD có khả năng chia làm 3 nhóm chính:

1 – các triệu chứng gợi nhớ.

Bệnh nhân thường nhớ lại hoàn cảnh sang chấn một cách ngoài ý muốn. Sự nhớ lại này cũng có khả năng được thể hiện qua những giấc mơ (thường là ác mộng). Nếu là trẻ em thì thường chơi hoài những trò chơi có nội dung liên quan tới hoàn cảnh sang chấn. Trong một số ít vấn đề, bệnh nhân có những khoảng thời gian (thường là trong khoảng vài giây đến vài giờ) tách rời khỏi thực tế và cư xử như hiện đang sống trong hoàn cảnh sang chấn. Lúc bắt buộc phải liên tục tiếp xúc với các hoàn cảnh hay dấu hiệu gợi nhớ đến sang chấn (thí dụ như khi phải đi thang máy trong nguy cơ một phụ nữ đã bị cưỡng hiếp trong thang máy) thì họ thường có cảm giác dồn nén về mặt tâm lý hay xảy ra các phản ứng trực tiếp trên cơ thể như như cảm giác mệt, hụt hơi, hồi hộp, tim đập nhanh …

2 – Những dấu hiệu tránh né.

Người bệnh luôn cố chạy trốn khỏi những ý nghĩ, các thói quen, nơi chốn, hay những cuộc nói chuyện sở hữu nội dung có thể làm họ nhớ lại hoàn cảnh sang chấn. Sự cố tình tránh né này có thể làm họ không còn nhớ nổi những điểm cấp thiết về hoàn cảnh sang chấn. Họ ko còn thích tham gia các sinh hoạt mà trước kia họ đam mê và cảm thấy mình như “trơ lì” ra, không thấy còn hứng thú gì với tất cả mọi người chung quanh. Bên cạnh đó họ luôn có suy nghĩ tiêu cực về tương lai.

3 – Những trạng thái tăng cảnh giác.

Bệnh nhân thường cảm thấy khó ngủ, dễ bộc phát những cơn giận dữ bất thình lình, khó tập trung chú ý, luôn ở biểu hiện đề phòng những việc xấu có khả năng xuất hiện và thường bị giật mình.

IV – Diễn tiến bệnh:

Các triệu chứng bệnh thường dao động theo thời gian. 30% Có khả năng hồi phục hoàn toàn, 40% vẫn còn các trạng thái ở mức độ nhẹ, 20% còn triệu chứng ở mức độ trung bình và 10% có trạng thái bệnh không thay đổi hay xấu đi.

V – Trị liệu

Lập phác đồ chữa trị kết hợp giữa thuốc với iệu pháp tâm lý.

1 – Thuốc:

Có hiệu quá trong hầu hết trường hợp bệnh lý. Chủ yếu là các loại thuốc ngăn ngừa và điều trị trầm cảm.

2 – Liệu pháp tâm lý:

Có khả năng áp dụng một hay phối hợp nhiều hình thức điều trị bằng liệu pháp tâm lý sau đây: Chữa trị hành vi (điều chỉnh hành vi và ý nghĩ của bệnh nhân tích cực hơn mỗi ngày), chữa trị phân tâm (giúp người bệnh đánh giá lại bản thân, giải quyết các mâu thuẫn nội tâm và xóa bỏ tự ti), tư vấn người thân và gia đình (giúp những thành viên trong gia đình hiểu rõ bệnh nhân hơn, từ đó chủ động phối hợp với bác sĩ tham gia vào quá trình chẩn trị cho bệnh nhân) và chữa trị nhóm (nhiều bệnh nhân có hoàn cảnh tương tự tập hợp lại với nhau để giãi bày cảm xúc và chia sẻ kinh nghiệm, nhờ đó họ không còn cảm thấy cô độc và giao tiếp với cộng đồng tốt hơn).

Nếu triệu chứng quá nặng hay người bệnh có nguy cơ tự tử, xuất hiện biểu hiện tấn công người khác thì cần phải cho họ nhập viện ngay./.

 

Exit mobile version