Trước đây mật gấu (hay còn gọi là hùng đởm) là một trong những thành phần được sử dụng phổ biến trong các bài thuốc Đông y. Nhưng để đảm bảo chúng không bị tuyệt chủng, chúng ta còn có thể sử dụng một số cây thuốc hay vị thuốc khác có tác dụng thay thế mật gấu.
Cỏ mật gấu
Cỏ mật gấu là chủng loại cây thảo sở hữu thân biến thiên. Loại cỏ này nếu dày thì mọc đứng, thưa thì mọc bò, có bốn góc rõ rệt ít hay nhiều, có lông, cao khoảng 15cm – 1m, phân nhánh ít hoặc nhiều. Lá mọc đối, phiến lá có hình trứng, mép khía răng cưa, gân phụ 5 – 6 cặp, cuống 1,5cm. Cụm hoa mật gấu có hình chùy thưa ở ngọn, dài 10 – 20cm, lá bắc vô cùng nhỏ, thường rụng sớm. Hoa có cuống dài, siêu nhỏ; đài hình chuông, 5 răng; tràng dài gấp hai đài, màu trắng có chấm hồng, ống hình trụ, phiến hai môi, môi trên 4 thùy, môi dưới nguyên; nhị 4, thò ra ngoài; vòi nhụy chẻ đôi ít. Quả bé nhỏ, tù, nhẵn. Hoa có từ tháng 8 – 11.
Bộ phận có dùng: Toàn cây.
Tính vị, tác dụng: Cây mật gấu có vị đắng, tính mát; có công dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, lọc máu và tán ứ.
Hồng hoa
Hồng hoa là loại cây nhỏ, sống hàng năm, cao 0,6 – 1m hoặc cao hơn. Thân đứng, nhẵn, có vạch dọc, phân cành ở ngọn. Lá thường mọc so le, đầy đủ không có cuống, gốc tròn ôm lấy thân. Phiến lá hình bầu dục hay hình trứng dài 4 – 9cm, rộng từ 2 – 3cm, chóp nhọn sắc, mép sở hữu răng cưa nhọn không đều, mặt lá nhẵn, có màu xanh lục sẫm, gân chính giữa lồi cao. Cụm hoa đầu ở ngọn thân; bao chung gồm nhiều vòng lá bắc với hình dạng và kích cỡ khác nhau, có gai ở mép hay ở chóp, hoa nhỏ, màu đỏ cam, khá đẹp, đính trên đế hoa dẹt. Quả bé, hình trứng, có 4 vạch lồi. Mùa hoa thường từ tháng 5 – 7 còn mùa quả từ tháng 7 – 9.
Hồng hoa có nguồn gốc ở Ả Rập, nay còn được trồng phổ biến ở Ấn Độ, Trung Quốc, nước Nhật và nhiều nước khác. Ở Việt Nam, trước đây chúng được trồng phổ biến ở Hà Giang, nhưng sau đó ít dần, đến năm 1970, ta lại nhập giống và đem trồng ở nhiều nơi, từ Hà Nội cho đến Đà Lạt. Hồng hoa thường được trồng vào mùa xuân và trồng bằng cách gieo hạt vào. Thu hái hoa đang nở có màu hồng đỏ, phơi ở nắng nhẹ, trong râm cho khô. Để tiện cho việc bảo quản hơn, hoa sau khi hái, lấy cánh hoa giã thành bánh rồi phơi khô.
Thành phần hóa học: Trong hồng hoa có chứa sắc tố màu đỏ là carthamin (0,3 – 0,6%) không tan trong nước và một vài sắc tố màu vàng tan trong nước. Bên cạnh đó còn có isocarthamin sẽ chuyển dần thành carthami, luteolin 7-glucosid và 3 – rhamnoglucosid của kaempferol. Hạt hồng hoa có chứa khoảng 20-30% dầu, 12 – 15% protein. Dầu này có thành phần giàu về các glycerid của các axit béo không trung hòa, có hàm lượng tới 90%.
Tính vị, tác dụng: Hồng hoa có vị cay, tính ấm; vào kinh Can tác dụng hoạt huyết, phá ứ huyết, sinh tân huyết và thông kinh.
Tác dụng: Hồng hoa được thường được sử dụng để chữa bế kinh, đau kinh, ứ huyết sau lúc đẻ, khí hư, viêm tử cung, viêm buồng trứng, chữa chấn thương ứ huyết sưng đau.
Huyết dụ
Huyết dụ là lọa cây có kích thước nhỏ cao khoang 1 – 2m. Thân có mảnh to bằng ngón tay loại, có nhiều vết sẹo của các lá đã rụng. Lá thường mọc tập trung ở phần ngọn, dài khoảng 20 – 35cm, rộng 1,2 – 2,4cm, có màu đỏ tía; có loại lá ở mặt trên có màu đỏ, mặt dưới màu xanh. Hoa màu trắng pha tím, mọc thành chùy dài ở ngọn thân. Quả mọng chứa 1 – 2 hạt.
Bộ phận có thể sử dụng: Hoa, lá và rễ.
Nơi sống và thu hái: đây là loại cây trồng để làm cảnh khá phổ biến ở nhiều nơi. Thu hái hoa vào mùa hè. Khi tiết trời khô ráo, ngắt lá, gỡ bỏ lá sâu, đem phơi hay sấy nhẹ đến khô. Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô.
Tính vị, tác dụng: Huyết dụ có vị hơi ngọt, tính bình; có công dụng làm mát huyết, tóm máu, tán ứ định thống.
Tác dụng chính: Tán ứ định thống, lương huyết.
Công dụng: trị liệu chấn thương huyết ứ sưng tấy, thổ huyết, khái huyết, niệu huyết, rong huyết, băng huyết, lậu huyết, ngại nguyệt ra máu quá nhiều.
Lưu ý: Ở nước ta, đã xảy ra một số trường hợp bị tử vong liên quan đến việc uống mật gấu và tự ý sử dụng thuốc y học cổ truyền. Do đó, tuyệt đối không được tự ý dùng khi chưa có ý kiến và chỉ dẫn của các nhà chuyên môn. Hơn nữa, uống mật gấu còn có thể tạo ra một vài triệu chứng nhiễm độc như tổn thương quý gan và thận, vàng da, chán ăn, mệt mỏi, mắt đỏ, bảo đảm đau nhức, hồng cầu trong nước tiểu… nên khi sử dụng người bệnh cần đặc biệt cẩn thận.